Ý nghĩa của Học để chung sống
Năm 1996 Uỷ ban quốc tế vế Giáo dục cho Thế kỷ XXI do Jaccque Delor làm Chủ tịch đưa ra một báo cáo khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển tương lai của cá nhân, dân tộc và nhân loại. Báo cáo này nhấn mạnh giáo dục là “kho báu tiềm ẩn” và đã đưa ra một tầm nhìn về giáo dục cho Thế kỷ XXI dựa trên bốn trụ cột: Học để biết; Học để làm; Học để tự khẳng định mình; Học để cùng chung sống, trong đó Học để cùng chung sống được coi là một trụ cột quan trọng, then chốt của giáo dục hiện đại, giúp con người có được thái độ hoà bình, khoan dung, hiểu biết và tôn trọng lịch sử, truyền thống và những giá trị văn hoá và tinh thần của nhau.
Học để cùng chung sống là một chương trình gồm nhiều lĩnh vực với các mục tiêu khác nhau, bao gồm việc truyền thụ cho cá nhân, từ lúc còn thơ ấu cũng như suốt cả cuộc đời, những giá trị về việc không sử dụng bạo lực, thương lượng hoà bình, tôn trọng và chấp nhận đa dạng, về khoan dung, dân chủ, đoàn kết và công lý. Học để cùng chung sống cũng nhằm trang bị cho người học những tri thức, kỹ năng, giá trị và thái độ cần thiết cho cuộc sống nghề nghiệp để vào đời, làm cho họ có được nhận thức về sự khác biệt và đa dạng cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc trên thế giới; tăng cường giá trị đạo đức và tính cam kết, làm cho tình đoàn kết trở thành phương tiện chống sự kỳ thị và xung đột… Tất cả những khía cạnh này là cần thiết cho sự phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và văn hoá ở các nước giàu cũng như ccá nước nghèo.
Mục đích cuối cùng của Học để cùng chung sống vì hoà bình, quyền con người, dân chủ và phát triển bền vững là xây dựng trong mỗi cá nhân ý thức về các giá trị; hình thành thái độ ứng xử; phát triển khả năng đánh giá và đương đầu với những thách thức; tăng cường tính thích nghi, tinh thần tự chủ và sống có trách nhiệm; chấp nhận sự khác biệt và đa dạng giữa các nền văn hoá và văn minh; tôn trọng và bảo vệ các di sản văn hoá và thiên nhiên; bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên…
Nội dung cơ bản của Học để cùng chung sống
a. Hoà bình
Hoà bình chỉ được xây dựng một cách bền vững nếu hoà bình bắt rễ trong tâm trí con người. Điều này đã được xác nhận trong chương mở đầu của Hiến chương UNESCO như sau: “Vì chiến tranh nảy sinh từ trong tâm trí con người, cho nên phải xây dựng thành luỹ hoà bình ngay từ trong tâm trí của con người:. Hoà bình không chỉ làsự vắng bóng chiến tranh. Hoà bình còn có nghĩa là công lý và bình đẳng cho tất cả mọi người, thực sự hiều biết lẫn nhau, bao dung và cùng chung sống hoà hợp, không có bạo lực ngay từ bây giờ và cho các thế hệ tương lai. Hoà bình chỉ có thể được xây dựng lâu dài trên nền tảng những giá trị do các gia đình, thầy giáo, những nhà hoạt động xã hội… truyền lại cho thế hệ sau. Chính qua giáo dục tư tưởng cho các thế hệ trẻ mà hoà bình lâu bền có thể được bảo đảm vì các chính khách, các nhà công nghiệp, kỹ sư, luật sư, các nhà văn, các nhà lãnh đạo và các nhà cải cách tương lai chính là những người hiện đang ngồi trong các mái trường phổ thông hoặc đại học.
Giáo dục có vị trí trung tâm trong cuộc xây dựng hoà bình vì trước hết gaío dục đảm bảo việc truyền thụ cho người học những giá trị làm nên chất men của hoà bình. Những nội dung chính liên quan đến chủ đề hoà bình mà giáo dục có thể mang lại cho người học là sự khước từ bạo lực, khoan dung, vị tha, đoàn kết, chia sẻ với mọi người, quan tâm và tôn trọng lẫn nhau.
b. Quyền con người
Các chiến lược toàn cấu nhằm thiết lập cách tiếp cận giáo dục trên quyền con người xuất hiện từ đầu thiên niên kỷ mới và việc quyền con người trở thành xu hướng chủ đạo đã tạo thuận lợi cho việc đưa quyền con người vào hoạch định và thực hiện chính sách giáo dục ở tất cả các cấp, từ cấp độ toàn cầu tới địa phương. Các chiến lược này đều nhấn mạnh “quyền con người là trong tâm của mọi hoạt động”. Việc này tạo điều kiện cần thiết để xây dựng mối liên hệ giữa các lĩnh vực quyền con người, giáo dục và phát triển nhằm phấn đấu cho những mục tiêu chung là giáo dục cho mọi người, xoá đói nghèo và bình đẳng giới.
Giáo dục có nhiệm vụ cung cấp kiến thức và kỹ năng, làm cho học sinh hiểu được các giá trị cốt lõi của các quyền như quyền thụ hưởng giáo dục; quyền trẻ em; quyền lao động; các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá; các quyền dân sự và chính trị… đồng thời hiểu được cơ chế để bảo vệ các quyền đó cũng như đạt được các kỹ năng để có thể sử dụng các quyền này trong cuộc sống. Giáo dục quyền con người nhằm xây dựng sự hiểu biết về trách nhiệm chung của mọi người để làm cho các quyền con người, thúc đẩy bình đẳng và tăng cường sự tham gia của mọi người vào quá trình ra quyết định. Giáo dục quyền con người góp phần quan trọng vào việc xây dựng một xã hội công bằng trong đó các quyền cơ bản của con người được đề cao và tôn trọng.
c. Dân chủ
Dân chủ là nền tảng cho nền hoà bình lâu dài. Hoà bình, quyền con người, dân chủ và phát triển bền vững thực sự có lien hệ chặt chẽ với nhau. Dân chủ không thể có nếu không có hoà bình và ngược lại hoà bình cũng không thể tồn tại nếu không có dân chủ.
Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo ra những con người biết tôn trọng nhân phẩm và cam kết duy trì nền dân chủ. Mặt khác, dân chủ giúp đạt được bình đẳng về cơ hội học tập, tạo điều kiện cho người dân tham gia vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội, kinh tế và chính trị. Giáo dục về dân chủ đòi hỏi một quá trình lâu dài, không giới hạn vào một bậc học hay cấp học nào trong giáo dục ở nhà trường mà cần được thực hiện thông qua các môn học và lồng ghép trong toàn bộ quá trình giáo dục.
Giáo dục dân chủ nhằm truyền thụ cho người học những giá trị về phẩm giá, sự bình đẳng, tin cậy lẫn nhau, long khoan dung, sự tôn trọng và hiểu biết tín ngưỡng và nền văn hoá của người khác, tôn trọng cá tính, tôn trọng pháp luật, thúc đẩy sự tham gia tích cực của mọi người vào mọi mặt của đời sống xã hội.
d. Sự phát triển bền vững
Khái niệm Phát triển bền vững cho ta cách nhìn nhận mới về những vấn đề cần phải giáo dục cho học sinh “nhằm hình thành những cá nhân có đủ đạo đức năng lực và phát triển toàn diện; những cộng đồng được xây dựng trên nền tảng hợp tác, khoan dung và bình đẳng; các thể chế và hệ thống xã hội công bằng, trong sạch và có sự tham gia của mọi người; các hoạt động môi trường được tiến hành trên nguyên tắc duy trì, tôn trọng đa dạng sinh học và các chu kỳ sinh thái có lợi cho cuộc sống” (Hill et at.2003).
Giáo dục có vai trò quan trọng trong việc giúp người học hình thành hành vi và thái độ cần thiết cho phát triển bền vững đồng thời có được năng lực và hành động cụ thể vì một xã hội bền vững cà về kinh tế, môi trường hoá, một lối sống hài hoà với việc sử dụng bền vững và công bằng các nguồn lợi tài nguyênthiên nhiên cũng như chuẩn bị cho cá nhân để đối phó với những khó khăn và thách thức, tăng cường khả năng thích nghi, dạy cho người học tôn trọng và bảo vệ môi trường, chấp nhận các phương thức sản xuất và các kiểu tiêu dung lành mạnh, hài hoà giữa các nhu cầu cơ bản trực tiếp và các quyền lợi dài hạn. Giáo dục giúp người học hiểu được bản than mình và những người khác, hiểu được sợi dây gắn kết giữa con người và môi trường tự nhiên – Xã hội rộng lớn, thúc đẩy phàt triển bền vững và nâng cao khả năng giải quyết các vấn đề lien quan đến môi trường và phát triển.
Giáo dục vì sự phát triển bền vững “mở ra cho tất cả mọi người cơ hội giáo dục, cho phép họ tiếp thu được các tri thức và giá trị cũng như học được các phương pháp thức hành vi và phong cách sống cần thiết cho một tương lai bền vững và sự thay đổi xã hội một cách tích cực” (UNESCO 2005).
Giáo dục vì sự phát triển bền vững về cơ bản là quá trình đẩy các giá trị mà trong đó sự tôn trọngđược đặt ở vị trí trung tâm:
- Tôn trọng phẩm giá và các quyền con người và cam kết tạo sự công bằng về kinh tế, xã hội cho tất cả mọi người;
- Tôn trọng các quyền con người của thế hệ mai sau và cam kết thực hiện trách nhiệm giữa các thế hệ;
- Tôn trọng và quan tâm tới môi trường sống đa dạng của con người và thiên nhiên, trong đó không thể tách rời việc khôi phục và bảo tồn hệ sinh thái của trái đất;
- Tôn trọng tính đa dạng của văn hoá và cam kết xây dựng một nền văn hoá hoà bình, không bạo lực và khoan dung ngay tại mỗi địa phương và trên toàn thế giới.
Theo UNESCO, giáo dục vì sự phát triển bền vững hướng tới 3 nội dung cơ bản:
a/ Nội dung về văn hoá, xã hội: quyền con người; hoà bình và an ninh; bình đẳng giới; đa dạng văn hoá và hiểu biết về giao thoa văn hoá; sức khoẻ; HIV/AIDS; thể chế.
b/ Nội dung về môi trường: nguồn tài nguyên thiên nhiên (bao gồm nước, năng lượng, nong nghiệp và đa dạng sinh học); thay đổi khí hậu; phát triển nông thôn; đô thị hoá bền vững; phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.
c/ Nội dung về kinh tế: giảm nghèo; tinh thần và trách nhiệm tập thể; kinh tế thị trường …
Tóm lại:
Hoà bình, quyền con người, dân chủ và sự phát triển bền vững là những vấn đề trọng tâm của giáo dục “Học để cùng chung sống”. Học để cùng chung sống trong hoà bình, tôn trọng quyền con người, thực hành dân chủ và đạt được sự phát triển bền vững yêu cầu phải có một cách tiếp cận tích hợp và nhất quán để đảm bảo sự tham gia của người học và có tác động vào mọi khía cạnh của người học với tư cách là một cá nhân, đồng thời cũng đòi hỏi việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, hoàn thiện và đổi mới học liệu, định hướng lại đào tạo giáo viên, để thúc đẩy một quá trình giáo dục có chất lượng.
Một số phương pháp giáo dục Học để cùng chung sống
1. Phương pháp động não
* Mô tả phương pháp
Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắnnảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Đây là một phương pháp có ít để (lôi ra) một danh sách các thông tin.
* Cách tiến hành
Có thể tiến hành theo các bước sau:
- Giáo viên (GV) nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại các ý kiến.
- Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng.
- Tổng hợp ý kiến học sinh, hỏi xem có thắc mắc hay bổ sung gì không.
* Những yêu cầu sư phạm
- Phương pháp động não có thể dùng để lý giải bất kỳ một vấn đề nào, song đặc biệt phù hợp với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc trong cuộc sống thực tế của học sinh.
- Phương pháp này có thể dùng cho cả câu hỏi có phần kết đóng và kết mở.
- Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn bằng một từ hay một câu thật ngắn.
- Tất cả mọi ý kiến đều cần được GV hoan nghênh, chấp nhận mà không nên phê phán, nhận định đúng, sai ngay.
- Cuối giờ thảo luận GV nên nhấn mạnh kết luận này là kết quả của sự tham gia chung của tất cả học sinh.
- Động não không phải là một phương pháp hoàn chỉnh mà chỉ là sự khởi đầu. Một khi danh sách các câu trả lời đã được hoàn thành, cần phải cho cả lớp dùng danh sách này để xác định xem câu trả lời nào là sai.
- Nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh, đặc biệt là những em nhút nhát, trở nên bạo dạn hơn; các em học được cách trình bày ý kiến của mình biết lắng nghe có phê phán ý kiến của bạn; từ đó, giúp trẻ dễ hoà nhập vào cộng động nhóm, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt.
* Cách tiến hành
Thảo luận nhóm có thể tiến hành theo các bước sau:
- GV nêu chủ đề thảo luận, chia nhóm, giao câu hỏi, yêu cầu thảo luận cho mỗi nhóm, quy định thời gian thảo luận và phân công vị trí ngồi thảo luận cho các nhóm.
- Các nhóm tiến hành thảo luận.
- Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Các nhóm khác lắng nghe, chấp vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
- GV tổng kết các ý kiến.
* Yêu cầu sư phạm
- Có nhiều cách chia nhóm, có thể theo số điểm danh, theo màu sắc, theo biuểu tượng, theo giới tính, theo vị trí ngồi,…
- Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ tuỳ theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên, nhóm từ 4 đến 8 học sinh là tốt nhất bởi lẻ.
+ Số học sinh này nhỏ vừa đủ để đảm bảo tất cả các em có thể tham gia tích cực.
+ Số học sinh này lớn vừa đủ để đảm bảo rằng các em không bao giờ thiếu ý tưởng, và không có gì để nói.
2. Thảo luận nhóm
* Phương pháp
Như bản thân tiêu đề của phương pháp đã ngụ ý thực chất của phương pháp này là để học sinh bàn bạc, trao đổi trong nhóm nhỏ. Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẽ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn đề có liên quan đến bài học.
Câu hỏi mà các em bàn bạc có thể là kiểu câu hỏi đóng hoặc câu hỏi mở.
Các nghiên cứu về phương pháp thảo luận nhóm đã chứng minh rằng nhờ việc thảo luận trong nhóm nhỏ mà:
- Kiến thức của học sinh sẽ giảm bớt phần chủ quan, phiến diện, là tăng tính khách quan khoa học.
- Kiến thực trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu, học hỏi giữa các thành viên trong nhóm;
- Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau.
- Cần quy định rõ thời gian thảo luận và trình bày kết quả thảo luận cho các nhóm.
- Sẽ thậun lợi hơn nếu mỗi nhóm chọn một trong những thành viên trong nhóm làm trưởng nhóm. Nhóm trưởng điều khiển dòng thảo luận của nhóm, gọi tên các thành viên lên phát biểu, chuyển sang câu hỏi khác khi thích hợp đảm bảo rằng mỗi người- bao gồm cả những cá nhân hay xấu hổ hoặc ngại phát biểu có cơ hội để đóng góp. Đồng thời ở nhiều trường hợp nhưng không phải là tất cả - trong nhóm còn có ghi biên bản, sẽ ghi lại những điểm chính của cuộc thảo luận để trình bày trước cả lớp. Học sinh cần được luân phiên nhau làm ( nhóm trưởng ) và ( thư ký ) và luân phiên nhau đại diện cho nhóm trình bày kết quả thảo luận.
- Kết quả thảo luận có thể trình bày dưới nhiều hình thức: bằng lời, đóng thay, viết hoặc vẽ trên giấy to,…; có thể do một người thay mặt nhóm trình bày, có thể nhiều người trình bày, mỗi người một đoạn nối tiếp nhau,…
- Trong suốt buổi thảo luận nhóm nhỏ, GV cần đi vòng quanh các nhóm và lắng nghe ý kiến học sinh. Thỉnh thoảng cũng rất hữu ít nếu GV xen lời bình luận vào giữa cuộc thảo luận của một nhóm. Đối với những đề tài nhạy cảm thường có những tình huống mà học sinh sẽ cảm thấy bối rối xấu hổ khi phải nói trước mặt GV, trong trường hợp này GV có thể quyết định tránh không xen vào hoạt động của nhóm khi thảo luận.
3. Hoạt động nhóm nhỏ
* Mô tả phương pháp
Hoạt động nhóm nhỏ tương tự với những gì đã nói ở trên đối với phương pháp thảo luận nhóm, trừ một điều là GV mong muốn học sinh thực hiện một số bài tập cụ thể hơn là thảo luận đề tài.
* Cách tiến hành
Thường thì trước tiên học sinh cần phải thảo luận trước, sau đó mới làm bài tập và trình bày, giới thiệu sản phẩm hoạt động.
* Yêu cầu sư phạm
- Nội dung, hình thức hoạt động trong nhóm phải phù hợp với chủ đề bài dạy, phải phù hợp với nhu cầu và trình độ học sinh và với điều kiện thực tế của lớp, của trường.
- Việc trình bày, thảo luận kết quả, sản phẩm hoạt động nhóm có thể dưới nhiều hình thức khác nhau.
4. Phương pháp đóng vai
* Mô tả phương pháp
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “ Làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này và hơn thế điều quan trọng nhất là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
Phương pháp đóng vai có nhiều ưu điểm như :
- Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.
- tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học sinh .
- Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực.
- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
* Cách tiến hành
Có thể tiến hành đóng vai theo các bước sau:
- GV nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống và yêu cầu đóng vai cho từng nhóm. Trong đó có quy rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Lớp thảo luận, nhận xét, thường thì thảo luận bắt đầu về cách ứng xử của các nhân vật cụ thể hoặc tình huống trong vở diễn, nhưng sẽ mở rộng phạm vi xem thảo luận những vấn đề khái quát hơn hay những vấn đề và vở diễn chứng minh.
- GV kết luận
* Yêu cầu sư phạm
- Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề giáo dục học để cùng chung sống, phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
- Tình huống nên để mở, không cho trước “ Kịch bản” , lời thoại.
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai.
- Người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề.
- Nên khích lệ cả những học sinh nhút nhát cùng tham gia.
- Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng vai.
5. Phương pháp nghiên cứu tình huống (hai nghiên cứu các trường hợp điển hình)
* Mô tả phương pháp
Nghiên cứu tình huống thường là một câu chuyện được viết nhằm tạo ra một tình huống “ thật” để minh chứng một vấn đề hay loạt vấn đề. Đôi khi nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng cátset mà không phải trên dạng chữ viết. Vì tình huống này được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực, nó phải tương đối phức tạp, với các dạng nhân vật và những tình huống khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản
* Các bước tiến hành
Các bước nghiên cứu tình huống có nghĩa là :
- Đọc ( hoặc xem hoặc nghe) tình huống thực tế.
- Suy nghĩ về nó (có thể viết một vài lĩnh vực đó trước khi thảo luận điều đó với người khác).
- Đưa ra một hay nhiều câu hỏi hướng dẫn liên quan đến tình huống (trong tài liệu viết hay từ giáo viên.
- Thảo luận tình huống thực tế.
- Thảo luận vấn đề chung hay các vấn đề được minh chứng bằng thực tế.
* Yêu cầu sư phạm
- Tình huống có thể dài hay ngắn, tuỳ từng nội dung vấn đề.
- Tình huống phải được kết thúc bằng một loạt các vấn đề hoặc câu hỏi như: bạn nghĩ điều gì sẽ xảy ra tiếp theo ? Bạn sẽ làm gì nếu bạn là nhân vật A? Nhân vật B? v.v… vấn đề này có thể đã được ngăn chặn như thế nào? Lúc này cần phải làm gì để hạn chế tính trầm trọng của vấn đề?
- Vấn đề trả lời các câu hỏi này phải được dùng để khái quát một tình huống rộng hơn.
6. Phương pháp trò chơi
* Mô tả phương pháp
Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.
Cùng với học tập, giao lưu với bạn bè, vui chơi cũng là một nhu cầu của thanh thiếu niên học sinh. Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức cho thanh thiếu niên vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo dục. Qua trò chơi, lớp trẻ không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vì vậy, trò chơi được sử dụng như là một phương pháp dạy học quan trọng
- Qua trò chơi, học sinh có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi. Chính nhờ sự thể nghiệm này, sẽ hình thành được ở các em niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.
- Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống.
- Qua trò chơi, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi.
- Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động; không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập.
- Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa GV với học sinh.
* Yêu cầu sư phạm
- Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề giáo dục “học để cùng chung sống”, với đặc điểm và trình độ học sinh, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, đồng thời phải không gây nguy hiểm cho học sinh.
- Học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi.
- Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi.
- Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiến tất cả các khâu: từ chuẩn bị, tiến hành trò chơi và đánh giá sau khi chơi.
- Trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho học sinh.
- Sau khi chơi, GV cần cho học sinh thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của trò chơi.
7. Phương pháp dự án
* Mô tả phương pháp
Phương pháp dự án được hiểu như là một phương pháp trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết với thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh gia quá trình và kết quả thực hiện.
Phương pháp dự án có 3 đặc điểm cơ bản sau:
- Định hướng học sinh: Trong phương pháp dự án, học sinh tham gia tích cực và tự lực vào quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm và sáng tạo của người học. GV chủ yếu đóng vai trò tư vấn giúp đỡ. Tuy nhiên mức độ tự lực cần phù hợp với kinh nghiệm và khả năng của HS và mức độ khó khăn của nhiệm vụ. Sử dụng phương pháp này cần chú ý đến hứng thú của HS: HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Hứng thú của các em cũng cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án. Trong khi xây dựng và thực hiện dự án còn cần có sự hợp tác làm việc theo nhóm và sự phân công công việc giũa các thành viên của nhóm. Phương pháp dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng hợp tác của HS.
- Định hướng hoạt động thực tiễn: Phương pháp dự án kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, vận dụng lí thuyết vào thực tiễn. Chủ đề dự án gắn liền với các vấn đề, tình huống, thực tiễn. Nhiệm vụ dự án cần phù hợp với trình độ và khả năng HS.
- Định hướng sản phẩm: Trong phương pháp dự án, các sản phẩm được tạo ra theo định hướng sản phẩm. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết mà còn tạo ra những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn thực hành.
Phương pháp đề án có ưu điểm:
- Gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội
- Kích thích động cơ, hứng thú học tập của HS
- Phát huy tính tự lực, tinh thần trách nhiệm; phát triển khả năng sáng tạo, rèn luyện tính bền bỉ, kiên nhẫn; kĩ năng hợp tác; năng lực đánh giá.
- HS có cơ hội rèn luyện nhiều kĩ năng sống quan trọng như: giao tiếp, ra quyết định, giải quyết vấn đề, đặt mục tiêu …
* Các bước tiến hành
- Chọn đề tài và xác định của dự án: GV và HS cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích dự án. GV có thể giới thiệu một số hướng đề tài để HS lựa chọn và cụ thế hoá. Trong một số trường hợp, việc đề xuất đề tài có thể từ phía học sinh.
- Xây dựng đề ương, kế hoách thực hiện: trong giai đoạn này, HS với sự hướng dẫn của GV xây dựng đề cương, kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong việc xây dựng kế hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, cách tiến hành, người phụ trách mỗi công việc …
- Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá nhân.
- Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: Kết quả thực hiện, dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo. Sản phẩm dự án cũng có thể là tranh, ảnh, pa-nô, … để triển lãm, cũng có thể là những sản phẩm phi vật thể như: diễn một vở kịch, một cuộc tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách dân số trong cộn đồng, … Sản phẩm dự án có được trình bày giữa các nhóm HS, có thể được giới thiệu trong nhà trường hay ngoài xã hội.
- Đánh giá dự án: GV và HS đánh giá quá trình thực hiện, kết quả và kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút kinh nghiệm cho các dự án tiếp theo.
* Yêu cầu sư phạm
- Mục tiêu dự án phải rõ ràng và có tính thực tiễn, tính khả thi.
- Cần tạo cơ hội để tăng cường sự tham gia của HS trong dự án, tuy nhiên phải phù hợp với trình độ và khả năng của các em.