Trước hết, cần phải phân biệt rõ: Đâu là mục đích và đâu là mục tiêu!
Mục tiêu (objective) là cái đích cần phải đạt tới sau mỗi bài học vật lý, do chính giáo viên đề ra để định hướng hoạt động dạy học.
Mục tiêu giống mục đích ở chỗ đều là cái đề ra nhằm đạt tới, nhưng chúng khác nhau cơ bản:
- Mục đích (aim) là mục tiêu khái quát, dài hạn. Ví dụ: mục đích của chương trình vật lý trung học phổ thông
- Mục tiêu (objective) là mục đích ngắn hạn, cụ thể. Ví dụ: mục tiêu của một bài dạy học.
Như vậy, mục đích quy định mục tiêu. Mục đích chung của chương trình vật lý trung học phổ thông quy định mục tiêu cụ thể của các chương, bài vật lý cụ thể ở lớp 10,11, 12.
Bất kỳ một hoạt động nào cũng cần phải đề ra mục tiêu. Nhờ vậy, hoạt động mới có định hướng đúng, tổ chức phù hợp và kết quả mới được đánh giá rõ ràng. Hoạt động dạy học cũng phải đạt đến những mục tiêu nhất định trong từng bài, từng chương, trong suốt cả quá trình. Xác định mục tiêu đúng, cụ thể mới có căn cứ để tổ chức hoạt động dạy học khoa học và đánh giá khách quan, lượng hóa kết quả dạy học.
Việc xác định mục tiêu dựa trên những nguyên tắc nào?
- Mục tiêu phải phản ánh được mục đích giáo dục của nhà trường Việt Nam nói chung, mục đích của chương trình vật lý ở cấp học, lớp học.
- Mục tiêu phải phù hợp với lý luận dạy học hiện đại, cụ thể hóa vào bài dạy nguyên lý, quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng về phương pháp dạy học và giáo dục nói chung.
- Mục tiêu phải định rõ các công việc và mức độ hoàn thành của học sinh, tránh viết chung chung, thiếu cụ thể.
Trong dạy học hướng tập trung vào học sinh, thông thường mục tiêu phải chỉ rõ học xong bài, học sinh đạt được cái gì. ở đây là mục tiêu học tập (learning objectves) chứ không phải là mục tiêu giảng dạy (teaching objectves).
- Mục tiêu là cái đích của bài học cần đạt tới một cách cụ thể, chứ không phải là chủ đề.
- Mục tiêu không phải chỉ ra tiến trình bài học mà phải chỉ rõ sản phẩm của bài học.
- Các mục tiêu cụ thể được ghi rõ phân cách nhau để tiện cho việc đánh giá kết quả bài học.
- Mỗi mục tiêu cụ thể nên diễn đạt bằng một động từ để xác định rõ mức độ học sinh phải đạt bằng hành động.. Để viết mục tiêu cụ thể, nên dùng các động từ như: phân tích, so sánh, liên hệ, tổng hợp, chứng minh, đo đạc, tính toán, quan sát, lập được, vẽ được, thu thập, áp dụng... không dùng các động từ chung chung không đo đạc được như các động từ “nắm được”, “hiểu rõ”...
Các dạng mục tiêu trong dạy học vật lý
Mục tiêu được đề ra nhằm vào việc đảm bảo thực hiện nhiệm vụ. Liên quan với 3 nhiệm vụ cơ bản của lý luận dạy học, bài vật lý thường có các mục tiêu về kiến thức, kỹ năng, thái độ.
- Nhóm mục tiêu nhận thức. Theo B.Bloom (1956), trong lĩnh vực nhận thức, có 6 mức độ:
+ Biết: nhận biết, ghi nhớ, tái hiện, định nghĩa khái niệm.
+ Hiểu: thông báo, thuyết minh, tóm tắt, thông tin, giải thích, suy rộng.
+ áp dụng: vận dụng kiến thức vào tình huống mới.
+ Phân tích: nhận biết các bộ phận của một tổng thể, so sánh, phân tích, đối chiếu, phân loại.
+ Tổng hợp: tập trung các bộ phận thành một tổng thể thống nhất, lập kế hoạch, dự đoán.
+ Đánh giá: khả năng đưa ra ý kiến về một vấn đề.
Để xác định đúng mục tiêu, cần phải làm gì?
Đọc kĩ sách giáo khoa, kết hợp với các tài liệu tham khảo để tìm hiểu nội dung của mỗi mục trong bài và cái đích cần đạt tới của mỗi mục. Trên cơ sở đó xác định đích cần đạt tới của cả bài về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Đó chính là mục tiêu của bài.
Cuối mỗi bài học thường có hệ thống câu hỏi và bài tập. Giáo viên cũng có thể dựa vào đó để xác định mục tiêu bài học.
Một số ví dụ về cách xác định mục tiêu
Ví dụ khi dạy bài lăng kính, mục tiêu được xác định là:
- Trình bày được cấu tạo của lăng kính.
- Vẽ được đường đi của tia sáng đơn sắc qua lăng kính.
- Viết đúng và vận dụng được các công thức cơ bản của lăng kính để giải một số bài tập về lăng kính.
- Nêu được một vài ứng dụng của lăng kính.
Còn khi dạy bài các cách ghép nguồn điện thì mục tiêu là:
- Trình bày được cách mắc các loại bộ nguồn ghép nối tiếp, ghép xung đối, ghép song song, ghép hỗn hợp đối xứng (các nguồn giống nhau).
- Thiết lập được công thức tính suất điện động và điện trở trong của bộ nguồn trong các cách mắc trên.
- Vận dụng được công thức tính suất điện động và điện trở trong của bộ nguồn trong các cách mắc trên để giải một số bài tập đơn giản.